Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm lớp - Đặng Thị Xuân Sang

doc 22 trang Gia Linh 06/09/2025 100
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm lớp - Đặng Thị Xuân Sang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm lớp - Đặng Thị Xuân Sang

Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm lớp - Đặng Thị Xuân Sang
 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 MỤC LỤC
NỘI DUNG TRANG
1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 2
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp 2
1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp 3
1.3. Mục tiêu của giải pháp 4
1.4. Các căn cứ đề xuất giải pháp 4
1.5. Phương pháp thực hiện4
1.6. Đối tượng và phạm vi áp dụng5
2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP 6
2.1. Quá trình hình thành 6
2.2. Nội dung của giải pháp 9
3. HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 19
3.1. Thời gian áp dụng 19
3.2. Hiệu quả đạt được 19
3.3. Khả năng triển khai, áp dụng của giải pháp 20
3.4. Kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp 20
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 22
4.1. Kết luận 22
4.2. Đề xuất và kiến nghị 22
Tài liệu tham khảo 24
 Trang 1 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn các biện pháp
 Trong các cấp học phổ thông, bên cạnh những em học sinh ngoan hiền, 
chăm học thì vẫn còn một số em không tuân theo nội quy của nhà trường và 
thường làm theo ý của bản thân mình. Các em hay quậy phá, nghịch ngợm, đánh 
nhau, gây mất trật tự, thường xuyên bỏ học, trốn tiết, trêu ghẹo các bạn trong lớp 
và trong trường. Những em học sinh này thường được gọi là học sinh cá biệt. 
 Như chúng ta đã biết lứa tuổi học sinh THCS đa phần đang ở độ tuổi giáp 
ranh giữa trẻ em và người lớn. Với những biến đổi về tâm sinh lí, sức khỏe, 
nhận thức, tính “cá biệt” của một bộ phận học sinh ở lứa tuổi này có thể gây hậu 
quả đáng tiếc nếu nhà trường và gia đình không có những biện pháp thích hợp 
để ngăn ngừa, khắc phục, các em học sinh này dễ dàng bị người xấu lôi kéo, dẫn 
đến các tệ nạn xã hội. Vì ở lứa tuổi các em chưa có đủ tự tin để tự bảo vệ chính 
mình, chống lại những cái xấu đang từng giờ, từng ngày hoành hành trong xã 
hội. Muốn các em trở thành con ngoan, trò giỏi cần có sự phối hợp giữa nhà 
trường, gia đình và xã hội để làm tốt công tác giáo dục học sinh nhằm ngăn 
chặn, hạn chế học sinh cá biệt trong nhà trường. Trong những năm làm công tác 
chủ nhiệm lớp, đã bao lần tôi đã băn khoăn, trăn trở suy nghĩ, tìm tòi nhiều giải 
pháp để giáo dục học sinh chưa ngoan giúp các em trở thành con ngoan, trò giỏi. 
 Với những suy nghĩ trên, tôi chọn sáng kiến kinh nghiệm “GIÁO DỤC 
HỌC SINH CÁ BIỆT TRONG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM” 
2. Phạm vi và đối tượng thực hiện
 - Đối tượng áp dụng: Học sinh trường THCS Phan Chu Trinh.
 - Phạm vi áp dụng: Công tác chủ nhiệm giáo dục học sinh cá biệt lớp 8.3 
(năm học 2019 – 2020) và lớp 9.1 (năm học 2020 – 2021) của trường THCS 
Phan Chu Trinh.
3. Mục đích của giải pháp
 Nhằm làm tốt công việc mà tôi phải theo đuổi trong suốt những năm 
tháng làm việc tại ngôi trường THCS Phan Chu Trinh, xây dựng những phương 
 Trang 2 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
pháp giáo dục phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh cá biệt ở lớp 
chủ nhiệm, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay.
* Cơ sở lí luận:
 Theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác- Lê nin: "Bản chất con người 
là sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội", như vậy những hiện tượng học sinh cá 
biệt được nêu trên đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên hoặc tình cờ mà 
có. 
 Do đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, lứa tuổi mà nhiều người cho rằng 
"Ăn chưa no, lo chưa đến", suy nghĩ còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì 
thế các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi.
 Những HS cá biệt thường gặp phần lớn là những em có năng lực học tập 
yếu kém, điều đó cũng hoàn toàn dễ hiểu bởi nhận thức của các em kém thì làm 
sao có hành động tốt được. Việc hạn chế trong tiếp thu kiến thức của các em 
cũng dẫn đến sự lười biếng, chán nản, muốn phá phách, nhất là đối với những 
HS nam. Xét ở một khía cạnh khác thì cũng có thể các em vì tự ái về sự chê cười 
của thầy cô và bè bạn. Các em muốn chứng minh cho mọi người thấy rằng mình 
học không tốt nhưng mình lại giỏi về mặt khác, hoặc các em muốn thầy cô chú ý 
mình hơn, chính vì thế mà các em có những hành động nông nổi vượt ra khỏi 
những quy định chung.
* Cơ sở thực tiễn:
 Ở lứa tuổi học sinh THCS, lứa tuổi đang có sự mất cân bằng về mặt tâm 
sinh lí, việc các em mong muốn trở thành người lớn trong khi các em chưa có sự 
hiểu biết tương ứng , hoàn cảnh sống mỗi em cũng khác nhau, có em may mắn 
nhận được sự quan tâm kịp thời của cha mẹ khi ở trong trạng thái mất cân bằng 
ấy, có em không được sự quan tâm đúng mức, có em thì lại được gia đình quá 
chiều chuộng... Từ sự khác biệt trên nảy sinh ra những hiện tượng cá biệt trong 
học sinh và chính một bộ phận học sinh này đã gây không ít khó khăn cho giáo 
viên chủ nhiệm lớp. Những biểu hiện cá biệt của học sinh lại rất khác nhau về 
mặt hình thức cũng như mức độ nên giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp cũng rất 
khó trong việc phát hiện và có biện pháp xử lí thích hợp.
 Trang 3 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 Thông thường, khi làm công tác chủ nhiệm lớp, GVCN thường quan tâm 
đến những học sinh cá biệt nổi trội mà ai cũng nhìn thấy được, từ đó GVCN tìm 
hiểu tính cách cá biệt của các em do những nguyên nhân nào để có biện pháp 
giáo dục phù hợp. Có những trường hợp học sinh cá biệt nhưng không có biểu 
hiện rõ, khó phát hiện nhiều khi GVCN cũng lầm tưởng nên chưa có được 
phương pháp giáo dục thích hợp.
 Ở lứa tuổi các em cần có sự hỗ trợ, tư vấn của người lớn hay nói cách 
khác các em cần có sự qaun tâm từ cha mẹ, thầy cô , bạn bè, các em rất cần đến 
chúng ta. Không việc gì phải bi quan về hiệu quả giáo dục của mình, muốn đạt 
được hiệu quả cao chúng ta cần có tâm huyết, năng động sáng tạo đồng thời có 
sự kiên trì, nhất định chúng ta sẽ thành công.
 PHẦN NỘI DUNG
1. Trình bày các bước/quy trình thực hiện
1.1.Thời gian nghiên cứu và áp dụng SKKN
- Tôi chọn đề tài nghiên cứu: từ ngày 20 tháng 08 năm 2019 đến ngày 01 tháng 
05 năm 2020.
 Thời gian áp dụng nghiên cứu thực tế: từ tháng 8 năm 2019 đến tháng 5 
năm 2020.
 Thời gian tôi xây dựng đề cương: từ tháng 05 năm 2019 đến tháng 08 năm 
2020.
 Thời gian viết đề tài nghiên cứu: từ tháng 09 năm 2020 đến tháng 10 năm 
2020
1.2.Phương pháp thực hiện
 - Phương pháp quan sát: 
 + Quan tâm, tìm hiểu nguyên nhân và lí do chính để trả lời câu hỏi: Vì sao 
các em đó trở thành học sinh cá biệt?
 + Quan sát, theo dõi quá trình học tập và hoạt động của các em cá biệt 
(trước, trong và sau khi áp dụng các biện pháp giáo dục)
 Trang 4 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 - Phương pháp điều tra: Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, HS, phụ 
huynh học sinh (gặp trực tiếp hoặc gọi điện thoại), hội cha mẹ học sinh, bạn bè 
của HS.
 - Phương pháp phân tích, tổng kết và nhận xét: Tham khảo những bản báo 
cáo, tổng kết hàng tuần của đội.
 - Phương pháp tham khảo: Tham khảo những kinh nghiệm của các giáo 
viên chủ nhiệm lớp khác trong nhà trường.
 - Phương pháp khen thưởng, trách phạt.
 - Phương pháp tác động cá biệt, tác động song song (giáo dục tập thể).
 1.3.Quy trình thực hiện giải pháp mới:
1.3.1. Quy trình thực hiện
 * Tìm hiểu hoàn cảnh
 Một lớp có 45 học sinh thì có 45 hoàn cảnh gia đình và tính cách khác 
nhau.Có những em được sinh ra trong một gia điình hạnh phúc, điều kiện kinh tế 
khá giả, gia mẹ luôn quan tâm, yêu thương chăm sóc con cái. Nhưng cũng có 
những em lại sinh ra trong một gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó nhăn, cha mẹ 
do phải kiếm sống nên không có thời gian quan tâm chăm sóc con cái. Có những 
em phải sống trong một gia đình mà cha mẹ thường xuyên cãi vã nhau, không 
quan tâm đến những thay đổi hang ngày của con mình hoặc cha mẹ lục đục, li 
dị.
 Điều các em cần nhất ở lứa tuổi này là được sống trong một gia đình hạnh 
phúc, cha mẹ luôn quan tâm, yêu thương và lo lắng cho con cái, luôn lắng nghe 
và thấu hiểu cho những tâm tư, nguyện vọng của con mình. GVCN cần phải xác 
định em nào có một gia đình chưa hoàn toàn hạnh phúc, có xung đột giữa các 
thành viên trong gia đình... vì đó có thể là nguyên nhân khiến cho các em trở 
nên hư hỏng hoặc cũng có thể trở thành trẻ tự kỉ, sống xa lánh bạn bè, cha mẹ 
và thầy cô.
 Đã có những gia đình trong đó, cha mẹ đều là những người thành đạt 
nhưng con của họ lại là những "học sinh cá biệt về đạo đức" do người cha và mẹ 
 Trang 5 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
đi công tác liên tục, không có thời gian chăm sóc, gần gũi con để con có thể tâm 
sự, trao đổi, để hỏi han tình hình học tập, vui chơi của con. 
 Người lớn chỉ biết đáp ứng đầy đủ, thậm chí là dư dả nhu cầu tiền bạc, vật 
chất cho con và xem đây là điều kiện tiên quyết cho con học hành, thực sự thì 
hành động này đã có thể vô tình đầy con của mình vào con đường lêu lỏng, ăn 
chơi và trở thành học sinh cá biệt, đến lúc phát hiện được thì có thể đã muộn rồi.
 Cũng có những gia đình, do xung đột giữa các thành viên trong gia đình 
diễn ra trước mắt của các em, khiến cho các em trở nên cộc cằn, hoặc xấu hổ với 
bạn bè... có những hành vi bắt chước người lớn trong khi giải quyết các xung đột 
với các bạn cùng lớp và như vậy, vô tình người lớn đã đẩy các em trở thành học 
sinh cá biệt.
 Cũng có trường hợp gia đình của các em quá khó khăn, các em phải lo phụ 
giúp gia đình để kiếm sống và thời gian học bài của các em ở nhà bị hạn chế, 
khiến sức học các em bị đuối dần, thế là các em trở thành học sinh cá biệt...
 Nếu như GVCN nắm bắt được kịp thời hoàn cảnh sống của học sinh, chắc 
chắn sẽ có biện pháp kết hợp với gia đình để cùng nhau đưa ra các biện pháp 
giáo dục phù hợp hơn nhằm đưa học sinh trở lại chính mình.
 * Tìm hiểu về tâm sinh lý của học sinh
 Học sinh cấp II, lứa tuổi từ 12 - 15 này có nhiều biến đổi về tâm, sinh lí. 
Là lứa tuổi mà các nhà tâm lí học gọi là lứa tuổi khó dạy bảo. Để khẳng định 
mình, các em dễ có những hành xử bộc phát, bất ngờ mà chính các em cũng 
chưa ý thức hậu quả sẽ như thế nào. Vì vậy, một sự định hướng đúng đắn để 
giúp các em hình thành tính cách của mình sau này, là điều hết sức quan trọng 
khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường. Không chỉ truyền đạt kiến thức trong 
học tập, các em cần được trao đổi mọi điều về chính bản thân, về những gì chân 
- thiện - mĩ trong cuộc sống. Các em thường có những hành vi bắt chước một 
cách thụ động với những người gần gũi với mình.
 Trong một ngày thì các em chỉ ở trường học tối đa là 7 giờ, thời gian còn 
lại, các em sống trong môi trường gia đình, xã hội . Có những em tập tành hút 
thuốc do thấy người lớn hút thuốc với hình ảnh quá ư là điệu nghệ... có những 
 Trang 6 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
em nói tục, chửi thề một cách vô thức, do đã quen nghe và cảm thấy như vậy là 
hay, là sành điệu... Nếu như GVCN cập nhật kịp thời những thông tin này của xã 
hội thì học sinh sẽ cảm nhận thầy cô của mình không lạc hậu và như vậy tiếng 
nói của thầy cô sẽ có ảnh hưởng hơn đối với các em. Các em sẽ lắng nghe những 
phân tích của thầy, cô, giáo dục hướng cho em phát triển tâm sinh lí phù hợp 
với lứa tuổi.
 * Tìm hiểu mối quan hệ bạn bè
 Bạn bè, những mối quan hệ trong lớp, ngoài lớp cũng là điều mà chúng ta 
cần quan tâm. Các em có thể tâm sự hàng giờ với bạn mà không bao giờ tâm sự 
với thầy cô về một vấn đề nào đó. Đa phần các em học sinh xem bạn bè mình 
như một chuyên gia tư vấn. Bạn bè xấu, tốt ảnh hưởng nhiều đến nhân cách của 
các em. Người xưa thường nói "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng" điều này 
hoàn toàn không sai... vấn đề là ai sẽ đen, ai sẽ sáng thì chúng ta phải can thiệp 
một cách tế nhị, đúng lúc, kịp thời.
 Thầy cô, ngoài vai trò là người thầy chúng ta nên là người bạn tâm tình 
với các em, luôn lắng nghe những tâm tư, tình cảm ,nguyện vọng của các em. 
Thầy cô cần tạo ra môi trường học tập với tiêu chí “ Học mà chơi, chơi mà học” 
, tạo điều kiện cho các em tham gia vào các hoạt động tập thể, tổ chức các sân 
chơi để các em có thể giao lưu học hỏi nhau, từ đó nảy sinh tình bạn tốt. Hãy để 
các em phát triển tình bạn trong sáng, lành mạnh một cách tự do trong tầm kiểm 
soát chừng mực của người lớn. Vấn đề này cần có sự phối hợp của gia 
đình và nhà trường một cách chủ động.
 * Tìm hiểu sở thích, năng khiếu
 Hầu như bất kì một học sinh nào đều có một năng khiếu nhất định, năng 
khiếu này có thể do bẩm sinh, do rèn luyện. Nhiệm vụ của người thầy là thấy 
được năng khiếu của các em , tạo điều kiện phát huy sở trường của các em 
giúp các em có hứng thú hơn trong học tập, lấy đó làm động lực cho các em cố 
gắng hơn ở những mặt còn hạn chế.
 Có những học sinh thích lao động chân tay, khéo tay trong những hoạt 
động đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên trì nhưng lại học kém các môn cần sự tư duy. Có 
 Trang 7 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
những học sinh thích văn nghệ, ca múa hát... có những học sinh thích thể thao, 
võ nghệ...
 Hãy để cho các em có cơ hội thể hiện mình với các bạn và như vậy các em 
sẽ trở nên nổi bật với các bạn, đấy chính là động cơ thúc đẩy các em học tập tốt 
hơn nhằm không làm xấu đi hình ảnh của mình với các bạn.
 Như vậy, tạo ra những hoạt động ngoại khóa, những buổi sinh hoạt ngoài 
giờ lên lớp cũng chính là tạo ra những cơ hội cho các em có thể thể hiện tài năng 
của minh, lấy lại sự tự tin với các bạn, khẳng định thế mạnh của minh để từ đó 
các em được nhận sự khuyến khích của mọi người xung quanh, các em sẽ cố 
gắng nhiều hơn ở các mặt còn yếu kém.
1.3.2. Những cải tiến phù hợp với thực tiễn phát sinh
 Ngoài việc đẩy mạnh các hoạt động giáo dục thông qua các tiết sinh hoạt 
lớp, sinh họat Đội, 15 phút đầu giờ, các hoạt động ngoại khoá, ... để giáo dục 
đạo đức học sinh. Tuy vậy đối với học sinh cá biệt ngoài những biện pháp giáo 
dục chung, GVCN cũng cần có biện pháp giáo dục đặc thù.
 Việc giáo dục các đối tượng học sinh cá biệt không đơn thuần là nhìn 
nhận những biểu hiện bên ngoài của các em mà cần phải tìm hiểu nguyên nhân 
dẫn đến các hành động thiếu chuẩn xác, khi đã xác định được nguyên nhân 
chúng ta mới tìm ra biện pháp giáo dục phù hợp. 
 * Giáo dục bằng tâm lý
 Quan hệ thầy trò vốn là mối quan hệ tách biệt từ ngàn xưa. Trong nền 
giáo dục hiện tại, quan hệ đó đã được thay đổi, thầy trò ngày nay có tình cảm 
thân mật gắn bó hơn, có như vậy thì chúng ta mới thực hiện tốt được nhiệm vụ 
giáo dục toàn diện được. Bởi có quan hệ gần gũi thì mới biết được những tâm tư 
nguyện vọng của các em chúng ta mới có những biện pháp giáo dục thích hợp 
được.
 Đối với học sinh cá biệt, việc gần gũi với các em quả là một vần đề không 
đơn giản, nếu GVCN thiếu tế nhị một xíu thì khó mà có thể gần gũi với các em 
được, chẳng hạn thường xuyên phê bình, dùng nhiều lới xúc phạm đến các em ... 
đều có thể làm tổn thương đến mối quan hệ này. Hơn nữa vì các em thường 
 Trang 8 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
xuyên vi phạm nên các em càng lẩn tránh tiếp xúc với giáo viên nhất là giáo 
viên chủ nhiệm lớp.
 Để thấy được hết cá tính của học sinh, GVCN cần tạo đựơc mối quan hệ 
gần gũi với các em, thật sự là chỗ dựa đáng tin cậy nhất sau cha mẹ của các em. 
Chú ý khi giao tiếp với các em ta phải luôn cởi mở, chân tình, vui vẻ dễ cảm hóa 
được các em, khi có được mối quan hệ tốt các em sẽ thổ lộ những tâm tư tình 
cảm với GVCN mà không một chút ngần ngại. Những lời khuyên răn dạy bảo 
của chúng ta sẽ có tác dụng lớn đối với các em.
VD: Đối với em Lâm Gia Huy - học sinh lớp 8.3 do tôi chủ nhiệm là một học 
sinh học rất yếu, em thường xuyên không thuộc bài cũ và điểm rất kém ở các bài 
kiểm tra, em chán nản và có ý định bỏ học nhưng vì gia đình ép nên em đành 
phải đi học. Em tỏ ra lầm lì ít nói, mặc cảm với bạn bè, với thầy cô, xa lánh mọi 
người, nhất là đối với tôi em lại càng lẩn tránh hơn. Thấy vậy tôi tìm cách gần 
gũi em bằng cách: Trong tuần học thứ 4 em không thuộc bài 3 lần đều bị điểm 0 
và giáo viên bộ môn ghi tên vào sổ đầu bài . Lẽ ra như các tuần trước, những 
em không thuộc bài thì bị phê bình trước lớp, buộc viết bản cam kết, nhưng để 
có thể gần gũi em tôi không phê bình việc không thuộc bài cũ mà trong tiết sinh 
hoạt này tôi chỉ chú ý đến việc phê bình các em còn mất trật tự trong tiết học, tôi 
tìm cách tuyên dương em (bạn Hạnh là một học sinh học rất yếu, tuy vậy bạn rất 
có tinh thần tập thể, trong các tiết học bạn đều nghiêm túc lắng nghe thầy cô 
giảng bài, không gây ảnh hưởng đến các bạn khác...). Sau lần tuyên dương ấy 
em Huy có một thái độ khác, tôi nhận thấy em có mong muốn gần gũi với mọi 
người hơn. Thế là trong buổi lao động tôi tìm cách tâm sự cùng em, dần dần mối 
quan hệ giữa tôi và em ngày thêm gần gũi, lúc đó em mới thật sự thổ lộ hết 
mong muốn của mình. Em tâm sự với tôi rằng: “Em học yếu, đó là điều em luôn 
mặc cảm, việc học đối với em như một gánh nặng, gia đình em chẳng ai giúp 
được gì cho em, nhà lại ở cách xa các bạn, điều kiện gia đình lại khó khăn, em 
nghĩ em học yếu quá, có học cho lắm sau này cũng chẳng làm được việc gì” 
 Biết được tâm tư, nguyện vọng của em, tôi động viên em học, trong các 
giờ học tôi thường xuyên quan tâm em nhiều hơn, trao đổi với GVBM tạo điều 
 Trang 9 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
kiện tốt hơn để em tự tin trong học tập, phân công các em học sinh giỏi ở gần 
nhà đến giúp đỡ, ở lớp - tôi phân công một em học sinh giỏi, nhiệt tình ngồi 
cạnh để quan tâm nhiều đến em hơn. Dần dần em tự tin hơn, em được nhiều 
người quan tâm, em nỗ lực cố gắng và đã có những tiến bộ rõ nét, cuối năm em 
đã được lên lớp hẳn.
 VD: Trường hợp em Nguyễn Quốc Hoàn là một HS được cha mẹ nuông 
chiều từ nhỏ nên không lo học hành, và có thái độ không cần học cũng giàu có 
vì có của của cha mẹ. Sau khi theo dõi và tìm hiểu phân tích hoàn cảnh của 
Hoàn, tôi gặp riêng em sau giờ học cuối cùng của ngày thứ bảy. Tôi phân tích 
cho em hiểu của cải của cha mẹ sẽ không tồn tại mãi mãi và sẽ không còn nếu 
chúng ta không biết cách phát triển của cải đó, em đang còn nhỏ do đó cần học 
để sau này có việc làm ổn định để nuôi sống mình và của cải của cha mẹ để lại 
sẽ giúp thêm em đỡ một phần nào trong cuộc sống. Hoàn nói chuyện với tôi 
chân tình, khi thấy em không ngần ngại gì trong tâm sự cùng tôi, tôi bắt đầu gợi 
ý nhắc nhở từng lỗi vi phạm của em, chú ý trong các vi phạm của em tôi đều 
đưa em vào thế bị bạn bè lôi kéo, tâng bốc em vì em hay cho các bạn ấy tiền. 
Nếu sau này, em không cho bạn xấu tiền nữa thì tụi nó còn tâng bốc em nữa 
không hay những bạn xấu đó sẽ đánh đập, xa lánh em. Em hãy suy nghĩ xem, 
những bạn đó giúp được gì cho em trong việc học tập chưa. Đến đây, tôi thấy 
đôi mắt em chớp chớp, rưng rưng... Tôi đã cảm hoá được em, từ đó tôi thường 
xuyên trao đổi với em, mỗi lần trao đổi riêng, tôi đều tìm cách khen ngợi những 
tiến bộ của em trong học tập cũng như rèn luyện.
 VD: Một trường hợp khác, gia đình kinh tế khá giả, cha mẹ đi nước ngoài 
để em ở nhà với chú, cha mẹ chỉ biết lo gởi tiền về nuôi em mà không quan tâm 
đến việc học tập của con em, như gia đình em Nguyễn Tấn Dũng. Dũng là một 
học sinh hay theo bạn bè hay bỏ học, được cha mẹ thường xuyên cho tiền nên 
Dũng tha hồ chơi điện tử, thường xuyên bỏ học ... Với Dũng tôi dùng biện pháp 
khác tôi theo dõi em nhiều hơn, hễ em có vi phạm gì là tôi biết ngay và mỗi lần 
trao đổi với em tôi đều đưa ra những chi tiết rất chính xác. Ví dụ em bỏ học tiết 
nào tôi đều theo dõi và nắm bắt em chơi gì, ở đâu. Những ngày nghỉ học không 
 Trang 10 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
phép, tôi đều biết em chơi games ở đâu và nói chính xác em ngồi máy số mấy. 
Tất cả việc làm của em cô đều biết, em biết vì sao cô biết nhiều về em như vậy 
không? em biết vì sao cô quan tâm tới em nhiều không? Cha, mẹ bận bịu 
kiếm tiền gởi về nuôi em và cũng là tạo điều kiện để em ăn học, lo cho tương lai 
của em, nhiều bạn gia đình vất vả mà các bạn vẫn cố gắng học tốt như bạn Sang, 
bạn Ly, ... còn em có điều kiện tốt mà không lo học tập. Chơi bời với các bạn 
thời gian rồi sẽ chán, em có thể chơi cả đời được không? nếu bây giờ không lo 
học thì sau này em có thể làm được gì? rồi cha mẹ em sẽ ra sao? có xấu hổ với 
mọi người vì đã có một đứa con như em không? Dần dần, Dũng thấy được cái 
sai của mình và cũng đã sửa đổi.
 VD: Trường hợp của bạn Huy lại khác, em không phải là một học yếu 
nhưng do ba mẹ đi làm từ 11 giờ đến 22 giờ và làm xa, cách nhà 20 km. Về đến 
nhà là ba mẹ chỉ có ngủ nên không có thời gian chăm lo, theo dõi em vì em đi 
học buổi sáng lúc này ba mẹ chưa tỉnh giấc. Em đi học hay không đi học, đi học 
học trễ thì ba mẹ hầu như không biết được. Dần dần như thế, em đua đòi theo 
bạn bè, thích thì đi học không thì ở nhà chơi game. Tôi theo dõi em hàng ngày 
và thấy tình hình em không ổn, lớp sẽ bị trừ điểm thi đua. Em thường xuyên đi 
học với đôi giày màu đen đã cũ, ngả màu. Tôi đã nhắc nhưng em vẫn đâu đóng 
đấy. Em nghỉ học không phép, tôi biết em đang ở đâu, làm gì. Thế là tôi quyết 
tâm tìm đến gia đình em vì đã nhiều lần tôi gọi điện cho phụ huynh đều không 
liên lạc được. Tôi gặp ba mẹ em, ba mẹ em cứ tưởng em đến trường và tôi cho 
họ biết con họ đang ở đâu. Ba mẹ đi tìm em về, khi thấy tôi em đứng im, mặt tái 
mét không nói được câu nào. Mẹ em hỏi tại sao con không đi học, em trả lời 
“Con nói mẹ mua giày cho con nhưng mẹ không mua, con lên trường sợ sao đỏ 
ghi”. Khi nghe em nói, mẹ em ngỡ ngàng vì cũng đã lâu lắm rồi mẹ em không 
quan tâm đến việc học của em. Từ đó về sau, tôi thường xuyên quan tâm đến 
em, giúp đỡ em nhiều hơn đồng thời trò chuyện mỗi khi tôi thấy em ngồi một 
mình trong giờ ra chơi. Tôi tìm hiểu thì thấy hoàn cảnh của em đáng thương 
hơn đáng trách. Chính vì sự cởi mở giữa hai cô trò, tôi luôn lắng nghe em tâm sự 
như hai người bạn với nhau. Em dần dần đã hiểu tôi, em đã ngoan hơn, trong 
 Trang 11 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
giờ học em chú ý nghe giảng, tích cực xây dựng bài, em cố gắng dành nhiều 
điểm tốt để được cô khen. Về nhà em còn phụ giúp ba mẹ 1 số công việc gia 
đình. Sang học kì 2, em không vi phạm những lỗi đó nữa và có tiến bộ rõ rệt 
trong học tập và rèn luyện. Cuối năm, hạnh kiểm của em được cả lớp xếp loại tốt 
và được công nhận lên lớp 9 với học lực khá. 
 * Giáo dục bằng tập thể
 Ở tuổi các em, bạn bè có một vị trí rất lớn trong mối quan hệ xã hội của 
các em, thường ở lứa tuổi này các em chưa ý thức được việc nào là cần thiết 
hơn, chính vì thế đa phần trong quan hệ với thầy cô giáo các em thường có biểu 
hiện bao che cho nhau, nhất là những khi đề cập tới các đối tượng học sinh cá 
biệt, mặc dù biết việc làm của bạn là sai, tuy vậy khi hỏi đến phần lớn các em 
đều trả lời một câu chung nhất (không biết) - đối với những em có quan hệ gần 
gũi với HS làm từ cá biệt, cũng có thể các em ngại không dám nói ra sự thật vì 
sợ sự đe dọa của các bạn... Nhưng phải nói rằng tất cả những suy nghĩ, những 
việc làm của các em cá biệt thì chính các em học sinh cùng lớp, cùng khối là biết 
rõ nhất.
 Về vấn đề này GVCN cần khéo léo trong cách điều tra, có thể là điều tra 
bằng cách giao nhiệm vụ theo dõi tìm hiểu cho ban cán sự lớp hoặc một đối 
tượng HS đáng tin cậy nhất nào đó và sẽ trao đổi với các em bằng cách bảo mật 
thông tin. Thường thì những em này sẽ cung cấp cho chúng ta nguồn tin chính 
xác nhất.
 Sau khi nắm được thông tin, phân tích tình hình, tôi hướng dẫn các em 
gần gũi và giúp đỡ bạn, nên tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo cho những em cá 
biệt có niềm tin với mình. Phải nói rằng trong quan hệ bạn bè các em sẽ bộc lộ 
rõ cá tính không e ngại. Tôi thường xuyên giữ mối quan hệ với các em này tìm 
hiểu những khó khăn khi phải thuyết phục HS cá biệt để tháo gở khó khăn cho 
các em, thường xuyên cung cấp biện pháp xử lý kịp thời những biến động của 
các đối tượng và động viên các em, tạo cho các em có niềm tin thuyết phục, giúp 
đỡ học sinh cá biệt tiến bộ.
 Trang 12 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 Trong biện pháp này cũng có thể dùng cách (lấy độc trị độc). Qua các 
hoạt động của lớp, GVCN cần theo dõi kỹ, qua từng hoạt động các em có những 
biểu hiện như thế nào: say mê, hứng thú, nhiệt tình, tích cực hay qua loa chiếu 
lệ, đùn đẩy... Hoạt động này em thích dẫn đến nhiệt tình, hoạt động kia không 
thích thì né tránh...
 Từ việc theo dõi trên GVCN có biện pháp phát huy sở trường của từng em 
lấy đó làm đòn bẩy để tiến hành ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực khác nảy 
sinh ở các em.
 Em Tăng Huy Hoàng là học sinh thường xuyên nói chuyện riêng trong 
lớp, khi ban cán sự lớp phê bình là em hăm dọa đánh bạn. Để vừa ngăn chặn 
được sự mất đoàn kết trong lớp đồng thời xây dựng nề nếp tiết học tốt tôi phân 
em làm tổ trưởng tổ 1 - giao nhiệm vụ theo dõi các bạn trong tổ, đồng thời trước 
lớp tôi quy định những em cán sự lớp phải luôn gương mẫu đi đầu trong mọi 
hoạt động, nếu vi phạm thì hình thức kỷ luật sẽ nặng hơn. Khi nhận chức danh 
tổ trưởng Hoàng rất thích, tuần đầu tiên Hoàng có tiến bộ nhưng vẫn còn một 
vài lần bị phê bình là nói chuyện riêng, cuối tuần nhận xét tình hình chung của 
lớp tôi cho các em phát biểu phê bình vai trò trách nhiệm của Hoàng. Sau đó tôi 
nhận xét chung: “Dù trong tuần qua bạn Hoàng vẫn còn sai sót - có vi phạm kỷ 
luật, nhưng so với các tuần trước nề nếp của lớp ta tuần này tiến bộ hơn và bản 
thân Hoàng cũng có tiến bộ, vì sự tiến bộ của lớp ta có thể xí xóa cho bạn và cho 
bạn cơ hội để khẳng định vai trò của mình ở tuần học tiếp theo”. Về sau Hoàng 
đã ý thức được trách nhiệm của mình và không còn vô kỷ luật như trước nữa. 
 Đối với những học sinh thích gây rối tập thể, nghịch ngợm (lớp bị phê 
bình là niềm vui của các em)... Đối với những em học sinh này tôi dùng cách 
đẩy mạnh các hoạt động của lớp để các em thấy được những việc làm của mình 
không có tác dụng gì khi cả lớp đều có chung một sự quyết tâm nỗ lực vươn lên, 
làm cho các em bị tách ra khỏi tập thể, không thể gây rối tập thể được và vô hiệu 
hoá những hành động nghịch ngợm của các em. Không làm hại được tập thể lại 
bị tách rời khỏi tập thể, các em tự khắc thấy mình như bị hụt hẫng, xấu hỗ. Từ 
đó chính các em có mong muốn được sống chung trong một tập thể đoàn kết. 
 Trang 13 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
Khi những học sinh này thấy được những lỗi lầm của mình, GVCN lớp cần động 
viên HS trong lớp gần gũi, khích lệ để các em hoà nhập với tập thể.
 * Kết hợp với phụ huynh học sinh
 Có thể trao đổi qua các cuộc họp phụ huynh học sinh chung của lớp, 
GVCN báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và có thể mời phụ huynh các em 
này ở lại để trao đổi riêng, tránh sự mặc cảm của phụ huynh.
 Có thể trao đổi qua việc đến thăm gia đình học sinh. Thường học sinh cá 
biệt thì lại có phụ huynh đặc biệt; một là không quan tâm đến việc học của con 
em, hoặc không dám đối diện về những sai phạm của con mình...thường những 
phụ huynh này ít tham gia vào các cuộc họp chung kể cả những lúc có giấy mời 
riêng cũng không đến. Đối với những học sinh này, GVCN cần nhiệt tình hơn, 
có thể đến thăm gia đình để tìm hiểu điều kiện sinh hoạt của gia đình và nắm 
được tình hình của các em ở nhà, thường những đối tượng này họ ngại nói 
những điều sai của con em họ vì thế tôi tổng hợp những điểm tốt mà các em có 
được dù đó chỉ là một việc không đáng kể để khen ngợi các em, sau đó tôi lồng 
một vài khuyết điểm của các em; tránh nêu hoàn toàn hoặc một loạt khuyết điểm 
thì phụ huynh sẽ có sự mặc cảm, hoặc nảy sinh sự tiêu cực, buông xuôi, ngại nói 
ra những điều mà ta cần tìm hiểu, trao đổi.
 Có thể trao đổi bằng phiếu liên lạc, mỗi em có một sổ liên lạc giữa phụ 
huynh HS và GVCN lớp. Để tránh trường hợp các em giả mạo việc nhận xét vào 
sổ, đầu năm tôi yêu cầu phụ huynh ghi đầy đủ thông tin và ký tên vào sổ, nộp 
cho GVCN, hằng tuần có việc cần thiết liên hệ với phụ huynh, GVCN sẽ ghi vào 
sổ để các em đem về trình với phụ huynh vào ngày thứ bảy và nộp lại cho 
GVCN vào thứ hai. Cách làm này cũng có thể thường xuyên trao đổi với phụ 
huynh và kịp thời giáo dục, chấn chỉnh những sai phạm của các em.
 * Kết hợp giáo dục qua giáo viên bộ môn
 Như phần trình bày nguyên nhân trên, một phần biểu hiện cá biệt của các 
em là do quan hệ giữa giáo viên và học sinh chưa tốt, có em có những phản 
kháng đối với những hành động quá đáng của một vài giáo viên. Ví dụ như có 
giáo viên dùng những lời quá nặng nề trong việc nhận xét HS không thuộc bài 
 Trang 14 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
cũ, không hiểu được bài... Để xác định chính xác HS cá biệt có từ nguyên nhân 
này hay không, tôi thăm dò tất cả giáo viên dạy bộ môn của lớp để có biện pháp 
giáo dục thích hợp.
 Cũng có thể do tính cách cá biệt của các em, ở mỗi môn học em có một 
biểu hiện cá biệt khác nhau, tôi tổng hợp các ý kiến để xác định nguyên nhân cơ 
bản. Từ việc trao đổi trên tôi tìm ra những ưu điểm của các em để động viên 
đồng thời lồng vào từng chút một những khuyết điểm của các em để nhắc nhở 
khắc phục.
 Em Nguyễn Hoàng Mạnh là một học sinh cá biệt của lớp tôi chủ nhiệm 
năm học 2018 – 2019, các môn học thuộc lĩnh vực tự nhiên em học rất tốt, 
nhưng các môn đòi hỏi học bài thì em học rất yếu, thậm chí môn Tiếng Anh em 
đạt điểm kém. Em luôn đem đến sự phiền toái cho lớp như thường xuyên nói 
chuyện trong giờ học tiếng Anh, lớp bị trừ nhiều điểm do việc trốn tiết của em.
 Đối với đối tượng này tôi theo dõi thật sát đồng thời cứ mỗi lần em không 
thuộc bài tôi cho em viết một bản kiểm điểm, cam kết với giáo viên bộ môn và 
cam kết với lớp. Sau đó tôi trao đổi với GVBM về tính cách cá biệt của em đồng 
thời mong muốn có sự kết hợp giáo dục bằng cách thường xuyên kiểm tra bài 
em, nhất là trong tiết học luôn gọi em phát biểu trước lớp ưu tiên chọn những 
câu hỏi tương đối dễ để em trả lời được và thường xuyên khen để khích lệ, động 
viên em, nên bỏ qua lỗi nhỏ của các em.
 Với biện pháp trên, qua một học kỳ, em Mạnh đã tiến bộ rõ rệt cuối năm 
học em đã được lên lớp hẳn.
 * Kết hợp với các ban ngành, các bộ phận trong và ngoài nhà trường
 - Kết hợp với tổ chức Đội thiếu niên:
 Đây là tổ chức chuyên về mảng giáo dục hạnh kiểm HS. Tổ chức này có 
ban chỉ huy liên chi đội, có đội sao đỏ thường xuyên theo dõi các hoạt động của 
toàn trường và từng lớp học, có một tổng phụ trách Đội chuyên trách tổ chức các 
hoạt động Đội và kịp thời xử lý những vi phạm của HS, hơn thế nữa có phong 
trào thi đua làm đòn bẩy nên thường các biện pháp luôn đạt hiệu quả giáo dục 
cao.
 Trang 15 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 Một số GVCN lớp ngại trong việc khai báo những sai phạm của HS lớp 
mình vì sợ ảnh hưởng đến kết quả thi đua của lớp, nhưng với tôi việc kết hợp 
với tổ chức Đội là một biện pháp giáo dục có hiệu quả rất cao trong công tác 
giáo dục hạnh kiểm HS.
 + Đối với đội sao đỏ: tôi yêu cầu các em ghi lại tên của tất cả những em vi 
phạm. Có như vậy thì tôi mới kịp thời có được thông tin và xử lý dứt điểm 
những vi phạm đựơc.
 + Đối với các em trong ban chỉ huy liên chi đội - đội phát thanh măng 
non: Tôi thường xuyên cung cấp những cá nhân điển hình của lớp đưa vào các 
bản tin hằng ngày để tuyên dương khen ngợi, khích lệ tinh thần các em.
 + Với tổng phụ trách Đội: tôi thường xuyên giữ mối quan hệ chặt chẽ, tôi 
thường xuyên kết hợp các biện pháp giáo dục theo kiểu vừa đấm vừa xoa: đối 
với những đối tượng học sinh cá biệt tôi sử dụng biện pháp cứng rắn bên cạnh 
đó tôi nhờ tổng phụ trách đội động viên, những em tôi dùng biện pháp mềm 
mỏng thuyết phục tôi lại nhờ TPT có biện pháp cứng rắn hơn, cũng có lúc kết 
hợp cả hai cùng chung biện pháp, ở những lúc này thì chúng tôi kết hợp chặt chẽ 
hơn về khâu theo dõi và các luồng thông tin về đối tượng học sinh cá biệt.
 - Đối với bộ phận chuyên môn: 
 Tôi cũng học hỏi kinh nghiệm, nhờ sự giúp đỡ từ thầyhiệu phó khi tôi 
không giải quyết được những tình huống khó mà khả năng của tôi chưa giải 
quyết được hoặc chưa đạt kết quả tối ưu. 
 - Đối với hội cha mẹ học sinh:
 GVCN cũng cần phối hợp với hội cha mẹ học sinh của lớp, của trường để 
vận động các em HS có ý định bỏ học tiếp tục đi học. Cũng có thể vận động các 
phụ huynh có con em trong diện này quan tâm nhiều hơn đến con mình đồng 
thời hội cha mẹ học sinh cũng có thể giúp chúng ta trong việc thu nhận những 
thông tin mới về các em để chúng ta có biện pháp kết hợp giáo dục tốt hơn. 
2. Những ưu điểm, nhược điểm của biện pháp
3. Đánh giá về báo cáo biện pháp
a. Tính mới
 Trang 16 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
b. Hiệu quả áp dụng
3.1. Thời gian áp dụng giải pháp
- Thời gian áp dụng nghiên cứu thực tế: từ tháng 08 năm 2019.
3.2. Hiệu quả đạt được
 Qua sự cố gắng nỗ lực của bản thân, nhiều năm qua trong công tác chủ 
nhiệm tôi luôn vận dụng linh hoạt các biện pháp trên và cũng đã thu được kết 
quả rất khả quan:
 - Các lớp được tôi chủ nhiệm các em đều tham gia tốt các hoạt động của 
trường của Liên đội và luôn được đánh giá cao, bản thân tôi được hội đồng thi 
đua nhà trường công nhận là giáo viên chủ nhiệm giỏi;
 - Hai lớp đều đạt danh hiệu lớp tiên tiến;
 - Không có hiện tượng HS phải đưa ra hội đồng kỷ luật nhà trường;
 - Quan hệ thầy trò, bạn bè ngày càng được thắt chặt;
 - Uy tín nhà giáo được nâng cao, tạo được niềm tin trong phụ huynh học 
sinh.
 * Trong năm học 2019 – 2020, đầu năm khi nhận lớp chủ nhiệm, lớp tôi 
có 3 em trong đối tượng học sinh cá biệt, có 3 em thi lại lên lớp.
 Qua áp dụng các biện pháp giáo dục trên, cuối năm học 2019 – 2020 lớp 
tôi đã có những tiến bộ có thể thống kê trên số học sinh 39 em như sau:
 Sĩ Hạnh kiểm Học lực
 Ghi chú
 số
 Tốt Khá TB Yếu Giỏi Khá TB Yếu
 Khảo sát Có 3 HS 
 39 36 3 0 0 10 17 10 2
 đầu năm cá biệt
 Không có 
 Cuối năm 39 38 1 0 0 14 15 9 1
 HS cá biệt
 Trang 17 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 * Trong năm học 2019 – 2020, đầu năm khi nhận lớp chủ nhiệm, lớp tôi 
có 1 em trong đối tượng học sinh cá biệt.
 Qua áp dụng các biện pháp giáo dục trên, cuối năm học 2019 – 2020 lớp 
tôi đã có những tiến bộ có thể thống kê trên số học sinh 39 em như sau:
 Sĩ Hạnh kiểm Học lực
 Ghi chú
 số
 Tốt Khá TB Yếu Giỏi Khá TB Yếu
 Khảo sát Có 1 HS 
 39 36 3 0 0 10 17 10 02
 đầu năm cá biệt
 Không có 
 Cuối năm 39 38 1 0 0 14 15 10 0
 HS cá biệt
c. Khả năng triển khai, áp dụng của giải pháp
 Giáo dục học sinh cá biệt là một việc làm khó khăn và phức tạp, đòi hỏi 
người giáo viên luôn có sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Tất cả sự cố gắng và 
nỗ lực của chúng ta sẽ là cái chìa khoá cho các em bước sang một cuộc đời mới 
với sự nhìn nhận tích cực về thực tế và có ý thực rèn luyện để đạt tiêu chuẩn của 
con người mới xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để giáo dục học sinh cá biệt có hiệu 
quả có nhiều khâu, nhiều việc phải nghiên cứu tiến hành một cách đồng bộ và 
khoa học. Đổi mới phương pháp dạy và học, đẩy mạnh tuyên truyền làm thay 
đổi nhận thức của từng gia đình về việc giáo dục đạo đức cho con em. 
 Nâng cao trình độ nhận thức và năng lực công tác chủ nhiệm của giáo viên 
vì đội ngũ này đóng vai trò quyết định cho việc giáo dục đạo đức cho các em kịp 
thời giúp đỡ, động viên, uốn nắn, giáo dục các em.
 PHẦN KẾT LUẬN
 1. Những bài học kinh nghiệm thực tiễn khi áp dụng giải pháp
 Qua quá trình thực hiện tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau: 
 Muốn giáo dục tốt các đối tượng HS cá biệt, giáo viên chủ nhiệm cần 
phải:
 - Điều tra nắm rõ nguyên nhân của các hiện tượng cá biệt;
 Trang 18 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 - Nắm rõ tâm lý của từng đối tượng để đề ra biện pháp thích hợp;
 - Khi tiến hành các biện pháp giáo dục cần tránh việc nêu tất cả những 
khuyết điểm ra cùng một lúc hay nôn nóng muốn giải quyết được tất cả những 
sai phạm của các em cùng một lúc mà nên phân thời gian và chọn ra những sai 
phạm mang tính cấp bách hay cơ bản thì giải quyết trước;
 - Không yêu cầu quá cao, nên có sự thông cảm chia sẻ với các em.
 - Luôn tạo mối quan hệ gần gũi, cảm hoá các em;
 - GVCN cần biết kết hợp được nhiều tác nhân phối hợp giáo dục.
 2. Những kiến nghị, đề xuất để triển khai, ứng dụng vào thực tiễn.
 3. Cam kết không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.
 SKKN này của tôi được 
 Trang 19 Giải pháp: Giáo dục học sinh cá biệt trong công tác chủ nhiệm
 4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
4.1. Kết luận
 Giáo dục học sinh cá biệt là một việc làm khó khăn và phức tạp, đòi hỏi 
người giáo viên luôn có sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Tất cả sự cố gắng và 
nỗ lực của chúng ta sẽ là chìa khóa cho các em bước sang một cuộc đời mới với 
sự nhìn nhận tích cực về thực tế và có ý thức rèn luyện để đạt tiêu chuẩn của con 
người mới xã hội chủ nghĩa.
 Chúng ta giáo dục các em không chỉ bằng lời nói mà bằng cả hành động, 
cử chỉ, thái độ, tác phong hàng ngày. Hãy cảm hóa, giáo dục các em bằng cả tấm 
lòng của người thầy, người cha, người chị, người mẹ. Hãy nhìn các em với ánh 
mắt nhìn về tương lai, không nên dựa vào các hành vi nhất thời của các em mà 
đánh giá cả bản chất con người các em. Học sinh chúng ta chỉ là những cành cây 
non, đang muốn vươn lên trở thành cành cây vững chắc, hãy tạo điều kiện cho 
các em thể hiện mình, vươn lên nơi có ánh sáng vững bền, hãy giáo dục các em 
bằng thái độ thân thiện và tích cực.
 4.2. Đề xuất và kiến nghị
 - Nhà trường cần đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, tạo sân chơi 
lành mạnh cho học sinh như tổ chức thăm quan dã ngoại, xây dựng khu vui chơi 
giải trí, nhà thể chất.
 - Nhà trường cần kết hợp với đoàn thanh niên để tổ chức các hoạt động 
ngoại khóa, hoạt động xã hội, các cuộc thi để học sinh thể hiện sự năng động, 
sáng tạo. 
 - Công tác giáo dục học sinh cá biệt luôn luôn mong muốn có sự đồng 
hành và cộng đồng trách nhiệm của các giáo viên bộ môn và tất cả các ban 
ngành, đoàn thể trong nhà trường và ngoài xã hội.
 Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi trong công tác chủ nhiệm 
lớp. Rất mong sự đóng góp của lãnh đạo và đồng nghiệp.
 Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi viết, 
không sao chép nội dung của người khác.
 Đông Hòa, ngày 20 tháng 09 năm 2020
 Trang 20

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_giao_duc_hoc_sinh_ca_biet_tr.doc
  • pdfBÌA SKKN - SANG - 22- 23.pdf