Sáng kiến kinh nghiệm Dạy phụ đạo học sinh yếu môn Tiếng việt

 Thực tế cho thấy giáo dục tiểu học là một bậc học nền tảng của cả một quá trình giáo dục nói chung và chương trình giáo dục tiểu học nói riêng.

          - Khi bước vào học lớp 1 là sự khởi đầu cho việc hình thành và phát triển tư duy mà những tư duy này được dựa trên cơ sở tiếp thu những bài học và những kiến thức đạt được của các em trong một quá trình học tập lâu dài. Vì vậy, học tập đạt hiệu quả sẽ mang lại cho các em một tư duy tốt một khả năng tiếp thu kiến thức có hiệu quả. Song bên cạnh đó vẫn còn có những học sinh học tập chưa hiệu quả, tiếp thu kiến thức rất hạn chế điều này được thể hiện qua quá trình đánh giá kết quả học tập của học sinh qua các lần kiểm tra định kỳ đặc biệt là lần kiểm tra lần kiểm tra định kỳ cuối năm. Căn cứ vào thực tế này, cho thấy tỉ lệ học sinh yếu cuối năm của lớp 1 là luôn luôn cao hơn ở các lớp học khác đồng thời quá trình truyền thụ kiến thức ở lớp 1 cũng gặp nhiều khó khăn hơn ở các lớp trên nên tỉ lệ học sinh yếu luôn cao.

          Không khí ở lớp 1 mà tất cả các lớp học sinh yếu là 1 đối tượng được tất cả chúng ta quan tâm và để đưa chất lượng giáo dục ngày một hiệu quả hơn thì những người làm công tác giáo dục và những thầy cô đang trực tiếp giảng dạy cần phải chú trọng hơn đến đối tượng học sinh yếu và đặc biệt là lớp 1 là lớp đầu cấp của chương trình giáo dục tiểu học.

          * Giải quyết được vấn đề học sinh yếu cần phải có sự đồng bộ từ các cấp cho đến những người trực tiếp giảng dạy trên lớp vì:

“Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”

          Để giải quyết được chúng ta cần có sự thống nhất và phải có sự đồng bộ giữa những người có trách nhiệm và cụ thể nhất vẫn là những người trực tiếp tác động đến các đối tượng đó (chính là giáo viên chủ nhiệm).

Do được nhiều năm giữ lớp 1 nên tôi cũng đúc kết được những kinh nghiệm nhất định từ những thực tế của mình, tôi hy vọng có thể trình bày ra đây để tất cả chúng ta có thể làm tư liệu tham khảo cho những ai đang quan tâm đến đối tượng học sinh này và có thể giúp các cấp lãnh đạo có những thông tin để đưa ra những giải pháp mang tính đột phá cho vấn đề giảm tỉ lệ học sinh yếu đến mức thấp nhất có thể. Nhằm nâng cao hơn chất lượng đào tạo giáo dục trong nhà trường góp phần thúc đẩy sự phát triển chất lượng giáo dục chung của toàn ngành .

doc 13 trang Bảo Đạt 25/12/2023 3980
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy phụ đạo học sinh yếu môn Tiếng việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy phụ đạo học sinh yếu môn Tiếng việt

Sáng kiến kinh nghiệm Dạy phụ đạo học sinh yếu môn Tiếng việt
chế điều này được thể hiện qua quá trình đánh giá kết quả học tập của học sinh qua các lần kiểm tra định kỳ đặc biệt là lần kiểm tra lần kiểm tra định kỳ cuối năm. Căn cứ vào thực tế này, cho thấy tỉ lệ học sinh yếu cuối năm của lớp 1 là luôn luôn cao hơn ở các lớp học khác đồng thời quá trình truyền thụ kiến thức ở lớp 1 cũng gặp nhiều khó khăn hơn ở các lớp trên nên tỉ lệ học sinh yếu luôn cao.
	Không khí ở lớp 1 mà tất cả các lớp học sinh yếu là 1 đối tượng được tất cả chúng ta quan tâm và để đưa chất lượng giáo dục ngày một hiệu quả hơn thì những người làm công tác giáo dục và những thầy cô đang trực tiếp giảng dạy cần phải chú trọng hơn đến đối tượng học sinh yếu và đặc biệt là lớp 1 là lớp đầu cấp của chương trình giáo dục tiểu học.
	* Giải quyết được vấn đề học sinh yếu cần phải có sự đồng bộ từ các cấp cho đến những người trực tiếp giảng dạy trên lớp vì:
“Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
	Để giải quyết được chúng ta cần có sự thống nhất và phải c...i , nội,hoặc cha mẹ nghèo phải đi làm ăn xa kiếm sống bỏ các em ở nhà với cô, dì, chú, bác mà bản thân cô, dì, chú, bác họ là những người buôn thúng bán bưng, chạy ăn mỗi bữa nên thiếu sự quan tâm đến các em.
	Có những gia đình đông con sinh con không có kế hoạch cha mẹ là người chỉ lao động chân tay không có nghề nghiệp nên chỉ làm thuê để kiếm ăn từng bữa, các em đến lớp chỉ với 1 bộ đồ duy nhất không có đến bộ thứ hai để thay.
	Bên cạnh đó còn có những em ra đời trong nhiều hoàn cảnh không mong muốn nên sự phát triển trí não không bình thường nền hầu như các em không có khả năng nhớ kiến thức nên không thể tiếp thu.
 Bên cạnh những nguyên nhân nêu trên còn vô số những nguyên nhân khác nữa mà trong bài viết này tôi không thể nêu hết ra đây
 2. Những nguyên nhân chủ quan:
	Các em chưa hoặc không có ý thức học tập đi học không đủ tập vở, sách vở và đồ dùng học tập không biết bảo quản và giữ gìn nên mua rồi lại mất hoặc thậm chí xé tập vở thường xuyên nên giáo viên chủ nhiệm gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình giảng dạy và hướng dẫn các em học.
	Học không chú ý mà đến lớp chỉ mong được chơi với bạn ngồi trong giờ thì thường xuyên chọc ghẹo để bạn nói chuyện với mình.
	Các em không có thói quen học tập và rèn luyện ở nhà.
	Những học sinh lười học nên thường xuyên nghỉ học.
	Ngoài ra việc chưa qua học mẫu giáo đối với học sinh điểm ấp và qua mẫu giáo 36 buổi chỉ để theo hình thức cũng là một vấn đề ảnh hưởng đến việc các em học yếu.
 Môi trường học tập còn chưa gây được hứng thú đối với các em. Ngoài những nguyên nhân khác quan và chủ quan như đã nêu trên thì còn có rất nhiều
nguyên nhân khác như: nề nếp học tập kém, ý thức của các em chịu sự ảnh hưởng từ gia đình và môi trường xung quanh rất khó để giáo viên thay đổi.
	Các em là con em dân tộc khơme.
C. CÁC BIỆN PHÁP VÀ HÌNH THỨC TỔ CHỨC:
	Để khắc phục các nguyên nhân trên và hạn chế tối đa tỉ lệ học sinh yếu trong lớp chúng ta cần có những giải pháp sau:
I. Nhóm giải pháp giành cho giáo viên chủ nhi... được để chúng ta “bồi” ở đó, tránh tình trạng dạy tràn lan và đại trà sẽ không mang lại hiệu quả như mong đợi. Vì vậy phân loại ở bước này là bước đầu tiên và quan trọng nhất của quá trình giúp đỡ các em tiến bộ nghĩa là giáo viên phải xác định được các em yếu âm hay yếu vần? Âm thì yếu những âm nào? Âm đơn hay âm đôi? Nguyên âm hay phụ âm? Cụ thể đó là những âm nào?
	Sau khi đã xác định được rồi thì xem như chúng ta đã hoàn thành xong một bước cơ bản để giúp chúng ta vận dụng tiếp bước tiếp theo sẽ dễ dàng hơn.
Sau đây tôi xin giới thiệu một chương trình để áp dụng dạy các đối tượng này.
	2. Phương pháp và cách biên soạn chương trình giành cho đối tượng học sinh này:
	Tiết 1 + 2 Bài 1: Ổn định và phân loại học sinh
	Cách tiến hành: Ghi 1 câu tương ứng dụng lên bảng bất kỳ.
	Ví dụ:	Chú bói cá nghĩ gì thế
	Chú nghĩ về bữa trưa!
	Chỉ học sinh đọc tiếng có 2 âm trước “cá” và “về”
	 Yêu cầu học sinh đánh vần khoảng 2 – 3 tiếng hoặc 4 – 5 tiếng là giáo viên có thể biết được học sinh đó biết chỗ nào và thiếu chỗ nào.
	Ví dụ: Học sinh đánh vần đúng tiếng “chú” chơ - u – chu – sắc – chú thì có ý nghĩa là học sinh đã biết đọc âm và âm đôi “ch”.
 Nếu học sinh chỉ biết đọc tiếng cá trong câu đó có nghĩa là học sinh đã biết sơ về âm đơn và nguyên âm còn lại là các âm đôi lạ giáo viên phải hướng dẫn đọc lại.
	Nếu học sinh chỉ đọc tiếng cá và tiếng về thì khẳng định em đó đã biết hết các nhóm âm đơn, thì phải kiểm tra tiếp tục âm đôi.
Tiết 3 + 4: Bài 2: a, ă, â, d, đ, da, đa (đo, đô, đơ, đe, đê)
	Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc lại các âm lần lượt mỗi em đọc một lần, theo mẫu, các lớp đọc đồng thanh đi lại nhiều lần.
	Sau đó cho học sinh đọc cá nhân: theo thứ tự và không theo thứ tự nhưng phải dạy đến khi nào tất cả các học sinh trong lớp nắm được 5 âm này thì mới thôi. Sau đó cho học sinh ghép: đa, đo, đô, đơ, đe, đê, đi, đu, dư 
da, do, de, dơ, de, dê, di, du, dư
	Cho học sinh viết bảng và viết vở tập viết, yêu cầu học sinh vừa viết miệng vừa đọc thầm các tiế

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_phu_dao_hoc_sinh_yeu_mon_tieng_vie.doc